Kute
Tổng số bài gửi : 58 Join date : 20/04/2009
| Tiêu đề: ĐẶC TRƯNG MÔ HÌNH KINH TẾ TỰ DO MỚI CỦA MỸ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM Mon Mar 15, 2010 9:59 pm | |
| THS. CAO MINH NGHĨA & THS. NGUYỄN THỊ HOÀNG MỸ
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay dẫn đến việc mô hình kinh tế tư bản tự do bị lên án mạnh mẽ tại Mỹ và khắp nơi trên thế giới, kể cả những người từng ủng hộ mạnh mẽ nhất. Chuyên gia kinh tế Francis Fykuyama giảng dạy tại đại học John Hopkins, xem đây là “sự sụp đổ của mô hình kinh tế Mỹ” và “sự cáo chung của các học thuyết Reagan và Thatcher” (theo: Asiaweek, 13/10/2008).
Một số nhà phân tích và dư luận Mỹ đang nói đến việc Mỹ quay trở lại học thuyết Keynes và mô hình kinh tế “tân chính sách” dưới thời Tổng thống F.D.Roosvelt thời kỳ 1933-1939, hoặc theo mô hình dân chủ xã hội giống như các nước Đức, Pháp hoặc tìm mô hình khác với tên gọi mới như “chủ nghĩa tư bản có kiểm soát”, hay “chủ nghĩa tư bản có phòng vệ”, hay “chủ nghĩa tư bản sáng tạo”. Theo George Soros “… đặc điểm nổi bật của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay là nó không xuất phát từ cú sốc bên ngoài nào đó…. Chính hệ thống hiện thời tự thân nó tạo ra cuộc khủng hoảng này”.
Tờ nhật báo Pháp Le Monde, đã trích dẫn quan điểm của nhà trí thức, triết gia người Slovania Slavoj Zizek, một người thường xuyên thuyết trình tại các đại học Mỹ về cuộc khủng hoảng hiện nay “chủ nghĩa tư bản cần được xét lại một cách triệt để” vì “người ta từng lên án sự can thiệp của Nhà nước, xem đó là trở ngại cho sự vận hành của một nền kinh tế thị trường, trừ phi sự can thiệp đó là để phục vụ cho hệ thống tư bản”.
1. Đặc trưng của mô hình:
Chỉ tính từ đầu thế kỷ XX đến nay, trên nền tảng của cùng một phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thế giới đã trải qua 3 giai đoạn: chủ nghĩa tự do cổ điển trước đại khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933, chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai; chủ nghĩa tư bản "nhân dân" của học thuyết Keynes từ năm 1950 đến 1975 và chủ nghĩa tự do mới từ cuối những năm 1970 đầu những năm 1980 cho đến nay. Tương ứng với ba hình thái đó là ba hình thức Nhà nước: Nhà nước mạnh; Nhà nước phúc lợi can thiệp và Nhà nước tối thiểu thu hẹp cả chức năng kinh tế lẫn chức năng xã hội.
Mặc dù, cuộc khủng hoảng năm 1974 do tăng trưởng thấp, lạm phát cao làm tiền đề cho thời cơ của chủ nghĩa tự do mới nhưng bước ngoặt chỉ đến từ năm 1979 khi ở Anh, bà Margaret Thatcher lên nắm quyền. Đây là chính phủ tư bản phát triển đầu tiên công khai cam kết áp dụng chủ nghĩa tự do mới trong hoạt động thực tiễn. Một năm sau (năm 1980), Ronald Reagan được bầu làm Tổng thống Mỹ thì thập kỷ tự do mới bắt đầu hình thành ở Mỹ. Kinh tế Mỹ đã trải qua một cuộc tái cơ cấu sâu sắc ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Tái cơ cấu tự do mới đó tập trung vào biến đổi vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế, kéo theo việc hạn chế sử dụng chi tiêu của Chính phủ và đánh thuế để điều hòa chu kỳ kinh doanh, nới lỏng hoặc hủy bỏ điều tiết của Chính phủ đối với hành vi của tư bản trong các lĩnh vực trong nước và quốc tế, tư hữu hóa các doanh nghiệp nhà nước và tiện ích công, cắt giảm mạnh ngân sách cho các chương trình xã hội. Sự tái cơ cấu đó được gọi là “tự do mới” bởi nó là một hình thái được cập nhật và cực đoan hơn của lý thuyết kinh tế “tự do cổ điển” do Adam Smith và David Ricardo phát triển trong thế kỷ XVIII và XIX, với lập luận rằng nền kinh tế tư bản chủ yếu tự điều tiết thông qua hoạt động của các lực lượng thị trường.
Chủ nghĩa tự do mới ngày nay có quy mô rộng lớn hơn do sự tiến bộ của khoa học – công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, đã làm cho các dân tộc gần với nhau hơn và do toàn cầu hóa cùng với hội nhập quốc tế đang diễn ra trên một phạm vi rộng hơn với cường độ mạnh mẽ hơn.
2. Những ưu điểm và nhược điểm của mô hình:
2.1. Ưu điểm:
Sự thắng lợi của nền kinh tế theo chủ nghĩa tự do mới được minh chứng bằng sự thăng hoa của kinh tế Mỹ nửa sau thập kỷ 90 với tăng trưởng kéo dài, tỷ lệ thất nghiệp khá thấp và ít lạm phát, sản lượng và năng suất cao hơn.
Mô hình kinh tế tự do mới đề cao vai trò cá nhân. Thật vậy, một xã hội muốn phát triển thịnh vượng trước hết phải phát huy tính độc lập, sáng tạo của mọi cá nhân và muốn làm được như vậy phải có một môi trường xã hội tự do, thông thoáng. Sự can thiệp quá sâu của Nhà nước có thể dẫn đến tình trạng mất đi tự do và khả năng tự chủ, sáng tạo của cá nhân. Chính sách kinh tế dựa trên tư tưởng thị trường tự do với yếu tố chủ đạo của tư tưởng này là cần hạn chế vai trò của Chính phủ và thay thế bằng các lực lượng thị trường.
Mô hình kinh tế tự do mới giúp tăng tính cạnh tranh cao giữa các doanh nghiệp dẫn đến nền sản xuất sẽ hiệu quả hơn, hàng hóa sẽ đa dạng và phong phú hơn.
Mô hình kinh tế tự do mới giúp cho đồng vốn lưu thông dễ dàng hơn. Điều đó giúp cho các nước đang phát triển thu hút được nhiều vốn đầu tư từ đó hấp thu, tiếp cận nhanh hơn với khoa học – công nghệ cao, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho dân bản xứ đồng thời nâng cao thu nhập, mức sống người dân.
2.2. Nhược điểm
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm vượt trội, mô hình kinh tế tự do mới không thể tránh khỏi những hạn chế nghiêm trọng. Mô hình kinh tế tự do mới làm cho các nước dễ tổn thương trước việc đồng vốn bỏ đi nơi khác, đồng tiền không ổn định và do đó làm cho cả nền kinh tế cũng trở nên bấp bênh, nếu không có sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước.
Mô hình kinh tế tự do mới dẫn đến nền tài chính mong manh và khủng hoảng bằng cách tạo nên đầu cơ thay vì một nền kinh tế hướng mạnh vào sản xuất, làm cho kinh tế đình đốn và bất bình đẳng thêm trầm trọng.
Chủ nghĩa tự do mới tạo nên một tầng lớp tư sản rất giàu – một tầng lớp mại bản – có thu nhập, tài sản và quyền lực chính trị tại các nước đang phát triển. Chủ nghĩa tự do mới làm tăng vị thế mặc cả của tư bản đối với lao động. Cải cách tài chính tự do mới ngăn cản các chính sách tiến bộ. Các nước đang phát triển gặp khó khăn trong việc thi hành những chính sách kinh tế và xã hội độc lập.
Cụ thể, chủ nghĩa tự do mới áp dụng ở các nước châu Mỹ Latinh đã gây ra những hậu quả tiêu cực rõ rệt, như cắt giảm chi phí của Nhà nước cho phúc lợi xã hội, giảm thu nhập của công nhân; tư nhân hóa hàng nghìn doanh nghiệp nhà nước; làm hàng chục nghìn doanh nghiệp nhỏ phá sản; tài nguyên quốc gia lọt vào tay tư bản nước ngoài.
3. Bài học kinh nghiệm cho sự điều hành của Chính phủ đối với nền kinh tế Việt Nam:
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước và tổ chức quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập và chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi”. Là nước đi sau do những hoàn cảnh lịch sử, chúng ta rất xem trọng học tập và tiếp thu những thành tựu của các quốc gia đi trước một cách có chọn lọc và vận dụng thích hợp với tình hình thực tế của nước ta. Vì vậy, trước những luận thuyết kinh tế mới chúng ta phải thận trọng cân nhắc, biết chọn lọc cái đúng, gạt bỏ cái sai, không phủ định hết cũng không học tập một cách giáo điều.
Khi chủ nghĩa tự do mới hối thúc tư hữu hóa, Nhà nước Việt Nam chủ trương sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam vừa hợp tác vừa cạnh tranh với các doanh nghiệp tư bản nước ngoài nên cần giảm mạnh những doanh nghiệp nhỏ, thua lỗ và tập trung hơn vào các ngành và lĩnh vực then chốt. Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục giữ vai trò nồng cốt trong toàn bộ nền kinh tế đất nước, đáp ứng cơ bản những yêu cầu về quốc phòng và an ninh, về những dịch vụ công ích hướng về người nghèo. Nhà nước giữ cổ phần chi phối trong những doanh nghiệp quan trọng với quốc kế dân sinh. Chúng ta cổ phần hóa chứ không tư hữu hóa, kiên quyết chống lại những khuynh hướng lệch lạc nhằm biến cổ phần hóa thành tư hữu hóa. Chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, chứ không dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Khi chủ nghĩa tự do mới ráo riết đòi “người sử dụng phải trả tiền” hoặc chính sách “thu hồi chi phí”, Nhà nước Việt Nam đã có chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” và rất xem trọng chính sách đối với người nghèo. Hàng loạt các chương trình đã ra đời và đi vào cuộc sống như xây dựng nhà tình thương cho người nghèo không đủ tiền để xây nhà; xây dựng nhà tình nghĩa cho người thân của các liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc; khám chữa bệnh miễn phí đối với trẻ em dưới 6 tuổi; giảm 50% học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường đối với những học sinh bị khuyết tật; miễn 100% học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường đối với những học sinh bị khuyết tật thuộc diện hộ nghèo; học sinh dân tộc thiểu số thuộc diện nghèo; học sinh mồ côi cha mẹ, mồ côi cha hoặc mẹ mà người còn lại không đủ khả năng nuôi dưỡng; học sinh bị bỏ rơi, bị mất nguồn nuôi dưỡng. Đó là những cố gắng hỗ trợ thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở cho những học sinh nghèo trong hoàn cảnh một nước nghèo như Việt Nam mà chuẩn nghèo mới đối với khu vực thành thị là những hộ có thu nhập bình quân dưới 260.000 đồng/người/tháng (trước đây là 150.000 đồng/người/tháng); đối với khu vực nông thôn là dưới 200.000 đồng/người/tháng (trước đây là 80.000 – 100.000 đồng/người/tháng).
Khi chủ nghĩa tự do mới muốn lôi cuốn Việt Nam vào nền kinh tế thị trường không hạn chế, tất cả để cho “bàn tay vô hình của thị trường” xếp đặt, Nhà nước ta chủ trương một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước. Khi chủ nghĩa tự do mới lấy cạnh tranh làm động lực duy nhất, Nhà nước ta chủ trương nâng cao sức cạnh tranh đi đôi với đoàn kết và thi đua xã hội chủ nghĩa, không phải là cạnh tranh bóp chết đối thủ để tìm kiếm siêu lợi nhuận. Khi chủ nghĩa tự do mới hối thúc tư hữu hóa dịch vụ xã hội, Nhà nước ta khuyến khích tăng cường các dịch vụ cho người nghèo thông qua đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa trong hai lĩnh vực y tế và giáo dục đào tạo.
Khi chủ nghĩa tự do mới đòi hỏi “lao động linh hoạt” buộc công nhân làm thêm 400 – 500 giờ một năm, Nhà nước ta nhận thấy làm thêm cũng là cần thiết trong sản xuất thời vụ hoặc khi đến thời điểm giao hàng… nhưng khống chế trong phạm vi 200 giờ một năm đi kèm trả công làm thêm và các chế độ khác. Người lao động trong các doanh nghiệp bị phá sản mà có đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí theo mức lương cũ và được điều chỉnh tăng thêm 10%.
Khi chủ nghĩa tự do mới yêu cầu tự do hóa lĩnh vực tài chính – ngân hàng, Nhà nước ta rất thận trọng bởi đây là vấn đề sinh tử của quốc gia. Ngân hàng Sài Gòn thương tín (SACOMBANK) đang đàm phán với Ngân hàng ANZ về các khoản chi tiết trước khi ký hợp đồng chính thức sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận cho SACOMBANK bán 10% cổ phần cho ANZ. Ngân hàng này sẽ là cổ đông nước ngoài thứ ba sở hữu cổ phần của SACOMBANK sau Công ty Tài chính quốc tế (IFC) và Công ty quản lý quỹ DRAGON CAPITAL. Những trường hợp bán cổ phần của Ngân hàng Ngoại thương (VIETCOMBANK) và Ngân hàng đồng bằng sông Cửu Long đã được nghiên cứu rất kỹ trước khi có quyết định.
4. Nhận xét chung:
Chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam là hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước. Chủ trương này dựa trên quan điểm “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng một Nhà nước vì dân, một nền kinh tế công bằng, một xã hội không còn đói nghèo, dốt nát và kém văn hóa. Đây là mục tiêu quan trọng mà Việt Nam hướng tới chứ không phải một kiểu tự do hại người lợi mình, cạnh tranh không lành mạnh, lấy bất bình đẳng làm động lực của phát triển, lấy thị trường làm thống soái, đặt cá nhân quyền thế và giàu sang lên trên hết.
Tài liệu tham khảo
1. TS.Đinh Sơn Hùng – Sách tham khảo ”Những vấn đề cơ bản của các lý thuyết kinh tế” – Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh – năm 1993.
2. Nguyễn Văn Thanh – Sách tham khảo ”Nhận diện chủ nghĩa tự do mới” – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Hà Nội – năm 2005.
3. Thời báo Kinh tế Sài Gòn.
4. Thời báo Kinh tế Việt Nam.
5. Các tin tức trên TuanVietnam – Vietnamweek – Asiaweek.
SOURCE: BẢN TIN KINH TẾ VÀ XÃ HỘI SỐ THÁNG 12 NĂM 2009, VIÊN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN TPHCM | |
|