Kute
Tổng số bài gửi : 58 Join date : 20/04/2009
| Tiêu đề: THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ ĐỘC LẬP: QUI ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN Mon Mar 15, 2010 10:01 pm | |
| LÊ HOÀNG TÙNG
Thời gian gần đây, một số công ty cổ phần Việt Nam đã bày tỏ mong muốn và xúc tiến các thủ tục cần thiết để đăng ký niêm yết tại nước ngoài. Tuy nhiên, quá trình đó gặp không ít khó khăn mà các yêu cầu về cơ chế quản trị nội bộ và thành viên HĐQT độc lập là một trong các vướng mắc.
Thành viên Hội đồng quản trị độc lập
Trong các công ty cổ phần luôn tồn tại nguy cơ xung đột về lợi ích giữa một bên là cổ đông với tư cách người sở hữu vốn với một bên là những người quản lý điều hành công ty với tư cách người trực tiếp quản lý sử dụng vốn. Những người quản lý thường không phải là cổ đông nắm giữ phần vốn góp đáng kể nhưng lại là người điều hành mọi hoạt động của công ty và vì vậy có thể họ sẽ ưu tiên các quyền lợi cá nhân, quyền lợi nhóm hơn là quyền lợi của các cổ đông. Do đó, luật về quản trị doanh nghiệp của các quốc gia cũng như những quy định của các thị trường niêm yết thường yêu cầu trong cơ cấu HĐQT công ty phải có sự tham gia của các thành viên HĐQT độc lập (Independent directors – ID). Các thành viên này có vai trò rất quan trọng trong việc giám sát, làm giảm nguy cơ lạm dụng quyền hạn của những người quản lý công ty, góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của cổ đông, nhất là những cổ đông nhỏ.
Mặc dù có những khác biệt nhất định giữa các quốc gia trong quy định về ID, nhưng tựu chung có thể thấy ID bắt buộc phải đáp ứng các tiêu chuẩn về tính độc lập như sau:
1. Độc lập trong quan hệ nhân thân
- Không từng là nhân viên, người quản lý điều hành của công ty, người đại diện vốn của công ty mẹ tại công ty trong vòng 3-5 năm trước đó.
- Không có mối quan hệ, liên kết với người quản lý điều hành, nhân sự cấp cao của công ty, cổ đông lớn (sở hữu một tỷ lệ nhất định vốn cổ phần của công ty trở lên).
- Không là người làm tư vấn, kiểm toán cho công ty, công ty liên quan trong một khoảng thời gian nhất định trước đó với tư cách cá nhân hoặc là người quản lý điều hành, nhân viên, đối tác, chủ sở hữu,… của hãng cung cấp các dịch vụ này.
- Thời gian tham gia làm thành viên HĐQT của công ty không quá một số năm nhất định kể từ ngày được bổ nhiệm lần đầu tiên. Chẳng hạn, 9 năm theo luật Anh, HongKong,…
2. Độc lập trong quan hệ về sở hữu và kinh tế
- Không phải là người sáng lập, là cổ đông lớn của công ty hay là người đại diện của cổ đông lớn. Một số nơi còn quy định tỷ lệ tối đa cổ phiếu của công ty niêm yết mà ID được phép nắm giữ, chẳng hạn 1% theo quy định niêm yết (Listing Rules – LR) tại HongKong.
- Ngoại trừ thù lao từ việc làm thành viên HĐQT, không hưởng bất kỳ lợi ích vật chất nào khác (như quyền mua cổ phiếu, các khoản trợ cấp,…) từ công ty.
- Trong vòng 3 năm trước đó không nhận các khoản bồi thường, đền bù,… từ công ty (trừ lương hưu, thù lao do tham gia các ủy ban,…) trên mức quy định, chẳng hạn 100.000 USD theo LR của Sở Giao dịch chứng khoán NewYork (NewYork Stock Exchange – NYSE).
- Không có quan hệ kinh tế (với danh nghĩa cá nhân hay với tư cách là người quản lý điều hành, chủ sở hữu,… ) dưới dạng hợp đồng, thỏa thuận, cam kết với công ty và công ty liên quan trong vòng 2 (HongKong, Malaysia,…) hoặc 3 (Mỹ, Úc,…) năm trước có giá trị cao hơn mức quy định. Ví dụ: 120.000 USD hoặc 2% tổng doanh thu gộp hợp nhất theo quy định ở Mỹ, 1 triệu Ringgit hoặc 5% doanh thu theo quy định của Malaysia,…
Yêu cầu của một số quốc gia, thị trường niêm yết
Theo quy định của NYSE hoặc SGD Chứng khoán Úc (Australian Stock Exchange – ASX), công ty niêm yết phải có đa số thành viên HĐQT là độc lập. Các ID phải họp thường kỳ (ít nhất mỗi năm 1 lần) không có sự tham gia của những người quản lý hoặc các thành viên HĐQT điều hành/không độc lập để tăng cường sự trao đổi và thông tin giữa các ID. Công ty phải thiết lập và công khai cơ chế để mọi tổ chức, cá nhân quan tâm có thể liên hệ với ID. Công ty phải thành lập Ủy ban bổ nhiệm có nhiệm vụ giới thiệu các ứng viên tiềm năng tham gia HĐQT và đánh giá hoạt động của HĐQT, Ban điều hành; phải thành lập Ủy ban thù lao, Ủy ban kiểm toán. Thành viên của cả 3 Ủy ban trên phải bao gồm toàn bộ (NYSE) hay đa số (ASX) là ID.
Ở Anh, Luật hỗn hợp về quản trị công ty (Combined Code on Corporate Governance – CCCG) quy định, các công ty khác phải có ít nhất 2 hoặc ½a số thành viên HĐQT là ID tùy số nào lớn hơn. HĐQT phải chỉ định một ID cao cấp để các cổ đông có thể trực tiếp trao đổi về những quan tâm của họ; phải thành lập Ủy ban bổ nhiệm gồm đa số các ID , Ủy ban thù lao bao gồm ít nhất 2-3 ID, Ủy ban kiểm toán bao gồm tất cả các ID. Các ID định kỳ có trách nhiệm đánh giá việc thực thi nhiệm vụ của Chủ tịch HĐQT.
Tại HongKong, Malaysia theo các quy định về niêm yết (LR) HĐQT công ty niêm yết phải có ít nhất 1/3 hoặc 3 (HongKong) hay 2 (Malaysia) ID tùy số nào lớn hơn, phải thành lập Ủy ban kiểm toán do một ID làm chủ tịch với tất cả các thành viên không điều hành và phần lớn trong số đó là ID. Các công ty niêm yết phải thành lập Ủy ban nhân sự và Ủy ban thù lao bao gồm phần lớn là các ID.
Thành viên Hội đồng quản trị độc lập có độc lập?
Vai trò của ID, như đã nói, xét trên phương diện lý thuyết là rất quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế người ta có nhiều lý do để quan ngại về tính độc lập cũng như khả năng độc lập của các ID.
Mối quan hệ
Luôn tồn tại các mối quan hệ có nguy cơ làm ảnh hưởng đến tính độc lập. Chẳng hạn, một số ID của Enron’s đã từng có sự liên kết với các tổ chức từ thiện được nhận một khoản đóng góp đáng kể từ công ty này. Theo thời gian, với sự tham gia ngày càng sâu vào hoạt động của công ty cùng với sự nảy sinh và phát triển của các mối quan hệ, tính độc lập ban đầu của các ID có xu hướng ngày càng giảm đi. Mặt khác, thù lao lớn một cách quá mức cũng là một tác nhân ảnh hưởng đến tính độc lập do các ID sẽ chú tâm đến việc củng cố vị trí hơn là thực thi chức phận của mình.
Để nâng cao tính độc lập của các ID cần thắt chặt quy định về "khái niệm" độc lập; quy định thời hạn cho việc tham gia HĐQT với tư cách là ID; thuê tư vấn, kiểm toán bên ngoài hàng năm đánh giá tính độc lập của thành viên HĐQT trên những khía cạnh chủ yếu. Mặt khác, bản thân mỗi ID cần xác định rõ, lợi ích mà họ có được là do cổ đông chia sẻ và vì vậy trên hết họ phải có nghĩa vụ đại diện và bảo vệ cổ đông.
Khả năng kiểm soát kỹ lưỡng và tính quyết đoán
ID có thể không phải là những người có am hiểu sâu sắc về công ty và lĩnh vực hoạt động của công ty. Chính vì thiếu kiến thức chuyên sâu và sự am hiểu về công ty nên họ khó có thể đưa ra những chất vấn thích đáng. Thêm vào đó, để được bổ nhiệm làm thành viên HĐQT họ có thể phải trải qua quá trình tham vấn tín nhiệm từ các thành viên điều hành, những người có thể nắm đa số cổ phần và có lá phiếu quyết định. Cảm giác hàm ơn do được bổ nhiệm vào HĐQT sẽ khiến họ cảm thấy miễn cưỡng mỗi khi định đưa ra những ý kiến phản biện đối với các đề xuất từ phía người điều hành. Mặt khác, các thành viên HĐQT không là người trực tiếp điều hành hoạt động của công ty, lại không có trong tay bộ máy điều hành nên đôi khi tiếng nói của họ thường trở thành "không chính thống" và trở nên không mấy hiệu lực.
Để khắc phục những vấn đề trên, các ID nên nhóm họp thường xuyên, không có sự tham gia của thành viên điều hành để chia sẻ ý kiến và những mối lo ngại. Cần chỉ định một thành viên ID cao cấp để lãnh đạo nhóm ID nhằm tăng cường việc chất vấn và kiểm soát kỹ lưỡng công tác quản lý. Mặt khác, cũng cần quy định rõ những quyết định cần có sự phê duyệt đồng thuận của tất cả các thành viên HĐQT độc lập, chẳng hạn các giao dịch vượt quá một ngưỡng giá trị nào đó,… Việc tham vấn các ý kiến tư vấn chuyên nghiệp về những vấn đề phức tạp, quan trọng cũng là điều cần tính đến. Bên cạnh đó, một điều quan trọng là các ID phải gia tăng nỗ lực cá nhân để có thể trở thành những chuyên gia giỏi trong một số lĩnh vực trọng yếu, đủ sức phản biện, chất vấn,… nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và hoạt động của công ty, tránh để Ban quản lý lạm dụng chức quyền, ảnh hưởng đến lợi ích cổ đông.
Khả năng tiếp cận các thông tin một cách độc lập
Ở các công ty, thường có tình trạng các thành viên HĐQT trông chờ một cách quá mức vào các thông tin do người quản lý cung cấp (kênh chính thống). Đáng tiếc là trong nhiều trường hợp, thông tin từ kênh này, trước khi đến được HĐQT thường đã được "chế biến", được "lọc" để mang tính thuyết phục hơn là cung cấp thông tin. Trở lại với vụ Enron cách đây đã gần 1 thập niên, phần lớn những thông tin chuẩn xác về tình hình của tập đoàn đã không đến được các thành viên HĐQT, phần đông trong số họ vốn đã thỏa mãn với mức thù lao trên trời và mối quan hệ hữu hảo với Ban quản lý,… Sự thỏa hiệp là tất yếu dẫn đến sự sụp đổ cũng là tất yếu.
Để khắc phục tình trạng "đói" thông tin và thông tin thiếu chính xác, các ID cần liên tục truy cập các thông tin và phân tích từ những nguồn tin độc lập, khách quan và trung lập. Cần thiết lập mạng lưới cung cấp thông tin riêng để đảm bảo thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, kịp thời. Nên thiết lập cơ chế cho phép cổ đông, những người cáo giác có thể tiếp cận với các ID hoặc ID cao cấp được chỉ định.
THỰC TẾ VIỆT NAM
Ở Việt Nam, Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn chưa có quy định cụ thể về ID. Quyết định 15/2007/QĐ-BTC ngày 19/03/2007 của Bộ Tài Chính ban hành điều lệ mẫu của các công ty niêm yết có quy định, ít nhất 1/3 tổng số thành viên HĐQT của công ty phải là thành viên HĐQT độc lập không điều hành. Tuy nhiên, thế nào là thành viên HĐQT độc lập không điều hành thì chưa được quy định. Quyết định 24/2007/QĐ-NHNN ngày 07/06/2007 của Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế cấp phép thành lập và hoạt động NHTM cổ phần cũng đã có quy định về thành viên HĐQT độc lập … Tuy nhiên, quy định này chỉ chi phối các NHTM cổ phần, các công ty khác thì sao?
Trên thực tế, trong mô hình quản trị của một số công ty Việt Nam đã manh nha hình thành cơ cấu thành viên HĐQT độc lập. Một số ID là người được nhiều người biết đến như Chuyên gia kinh tế cao cấp T.S Lê Đăng Doanh làm ID cho Công ty CP Rạng Đông, Ông Trần Xuân Giá nguyên Bộ trưởng Bộ KH-ĐT là ID của ACB và mới đây được bầu là Chủ tịch HĐQT của ngân hàng này,… Ở đa số các công ty cổ phần khác, ID hoặc chưa có hoặc tính độc lập không rõ nét hoặc vai trò rất mờ nhạt. Bởi xét cho cùng, nếu không có quy định pháp lý thì những ông chủ của các công ty này (cổ đông lớn đồng thời cũng là người quản trị, điều hành) chẳng có động lực gì để bổ nhiệm một ID tham gia vào HĐQT để "soi xét", "giám sát" mình. Đó là các công ty cổ phần thực thụ, còn ở các công ty cổ phần được chuyển đổi từ DNNN thì khó lòng kiếm được ID trong cơ cấu HĐQT bởi lẽ phần lớn họ đều là người đại diện vốn, người điều hành hoặc những "công chức" của DNNN cũ. Ở các công ty này Nhà nước thường chiếm tỷ lệ sở hữu cổ phần chi phối do vậy thực chất việc Đại hội cổ đông bầu HĐQT cũng chỉ là chính thức hóa danh sách đã được cơ quan chủ quản Nhà nước phê duyệt mà thôi. Và với cơ chế cổ phần "nửa mùa" (hoạt động theo cơ chế cổ phần nhưng ngoài sự tham gia quản lý của đại diện vốn Nhà nước vẫn có sự tham gia quản lý của các Bộ ngành), nhất cử nhất động của HĐQT vẫn chịu sự giám sát, chi phối, thậm chí can thiệp của các cơ quan nhà nước.
Vì thiếu vắng ID trong thành phần HĐQT nên lợi ích của các cổ đông nhỏ ở các công ty cổ phần có lúc, có nơi vẫn còn bị xem nhẹ. Mặt khác, bản thân các công ty cũng gặp khó khi muốn đăng ký niêm yết ở nước ngoài. Do vậy, việc ban hành các quy định pháp lý về thành viên HĐQT độc lập đối với các công ty cổ phần, nhất là công ty đại chúng và công ty niêm yết ở Việt Nam hiện nay xem ra đang là đòi hỏi cấp bách từ thực tiễn.
SOURCE: TẠP CHÍ NHÀ QUẢN LÝ SỐ 68, THÁNG 2 NĂM 2009 | |
|