Khắc phục những xung đột và lỗ hổng trong pháp luật
Gần đây, hệ thống pháp luật của nước ta đã và đang ngày càng hoàn thiện, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ chế độ chính trị, chế độ kinh tế, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật ở nước ta những năm qua cho thấy còn tồn tại hiện tượng nhiều quy phạm pháp luật (QPPL) trong một số văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) mâu thuẫn, chồng chéo, thậm chí phủ định lẫn nhau hoặc trái với Hiến pháp (khoa học pháp lý gọi là xung đột trong pháp luật). Ngoài ra còn có những quan hệ xã hội đang tồn tại và phát triển mà không có QPPL điều chỉnh (gọi là lỗ hổng trong pháp luật). Để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, chúng tôi đề cập một số vấn đề về phương diện lý luận và thực tiễn, cũng như kinh nghiệm của nước ngoài trong việc giải quyết các xung đột, lỗ hổng trong pháp luật ở nước ta hiện nay.
1. Vấn đề xung đột trong pháp luật
Có thể nói, trong lý luận và thực tiễn pháp luật chúng ta thường dùng các thuật ngữ và khái niệm như: mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu sót mà không gọi là xung đột và lỗ hổng trong pháp luật. Trên thực tế, khoa học pháp lý nước ta chưa có những nghiên cứu đầy đủ và chính xác về hai vấn đề này. Trong khi đó, vấn đề xung đột và lỗ hổng trong pháp luật đã được ghi nhận và nghiên cứu tương đối sâu trong khoa học pháp lý hiện đại của các nước trên thế giới.
Xung đột trong pháp luật là “sự bất đồng hoặc mâu thuẫn giữa các quy phạm, các VBQPPL riêng lẻ cùng điều chỉnh một hoặc nhiều quan hệ xã hội, mà sự mâu thuẫn đó được xuất hiện trong quá trình áp dụng và thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền”1.
Từ khái niệm trên, người ta chia các loại xung đột trong pháp luật thành các nhóm sau: xung đột giữa các QPPL với nhau trong cùng một văn bản pháp luật; xung đột giữa các VBQPPL điều chỉnh những quan hệ xã hội cùng nhóm hoặc trong cùng một lĩnh vực nhất định (sự mâu thuẫn giữa các VBQPPL của hệ thống pháp luật chuyên ngành); xung đột giữa thẩm quyền ban hành và áp dụng luật của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong hệ thống cơ quan nhà nước; xung đột nội dung trong các văn bản giải thích luật; xung đột giữa các nguyên tắc, thủ tục pháp lý trong áp dụng luật; xung đột giữa các quy định của pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế.
Với những vấn đề trên thì nội hàm của xung đột trong pháp luật đã được tiếp cận rộng hơn, bao trùm cả vấn đề mâu thuẫn, chồng chéo trong một văn bản, trong hệ thống các văn bản của từng ngành luật, từng lĩnh vực quản lý cụ thể với nhau và giữa văn bản pháp luật quốc gia với văn bản pháp luật quốc tế.
Trên thực tiễn, đa số những xung đột trong pháp luật nhà nước ta hiện nay thường phổ biến ở những dạng sau:
Thứ nhất, một số VBQPPL trong cùng một ngành luật có sự xung đột (mâu thuẫn) về thẩm quyền của người thi hành và áp dụng luật. Ví dụ, theo quy định tại khoản 3, Điều 25 và điểm c, khoản 1, Điều 31 của Luật Tổ chức Toà án nhân dân (TAND) năm 2002 và Nghị quyết số 56/2002/QH10 ngày 02/4/2002 về việc thi hành Luật Tổ chức TAND và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2002 thì những người sau đây: Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án các cấp; Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp huyện theo quy định của pháp luật tố tụng. Thế nhưng, Điều 68 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ban hành năm 1996 quy định ngoài những người có thẩm quyền nêu trên thì các Phó Chánh án TAND tối cao, các Phó Viện trưởng VKSND tối cao cũng có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Như vậy, quy định trong pháp lệnh này không thống nhất với quy định trong các luật tổ chức nói trên. Với nguyên tắc luật cao hơn pháp lệnh, các luật sẽ được áp dụng trong trường hợp này nhưng đây vẫn là điều bất hợp lý khi nó tồn tại suốt bốn năm liền mới được bãi bỏ bằng Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 cho phù hợp với luật.
Thứ hai, giữa một số quy phạm của các văn bản luật với quy phạm của văn bản dưới luật xung đột về đối tượng điều chỉnh. Ví dụ, Điều 29 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: cá nhân khi sinh ra có quyền được khai sinh. Nếu chết trước khi sinh hoặc sinh ra mà chết ngay thì không phải khai sinh, khai tử (Điều 30). Cách quy định này giống quy định của BLDS năm 1995. Tuy nhiên, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ban hành ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch (hiện nay vẫn còn hiệu lực) tại Điều 20 quy định: trẻ em sinh ra mà sống chưa được 24h thì không phải khai sinh. Như vậy, quy phạm trong Nghị định đã thể hiện sự xung đột đến mức phủ định quy phạm của BLDS hiện hành2. Có quan điểm cho rằng, một đứa trẻ sau khi sinh 24h mà chết thì không cần phải khai sinh. Tuy nhiên, theo chúng tôi, đã là quyền của một con người thì pháp luật phải bảo đảm mà không phân biệt thời gian người đó sống dài hay ngắn. Vì vậy, quyền khai sinh của đứa trẻ trong trường hợp này vẫn phải được pháp luật bảo đảm. Và dĩ nhiên, quy định của Nghị định phủ định quy định của lụật là không thể chấp nhận được. Nhưng đáng tiếc là trên thực tế người ta thường áp dụng nghị định mà ít áp dụng luật.
Thứ ba, việc sử dụng một số thuật ngữ pháp lý không rõ ràng, thống nhất. Ví dụ, Khoản 2, Điều 69 của Bộ luật Hình sự quy định “người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn…”. Trong khi đó, Điều 8 của Bộ luật Hình sự lại quy định: Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội… Trong khi đó, luật không giải thích thế nào là “gây hại không lớn” và cùng với cách quy định khái niệm tội phạm nêu trên, nên khoản 2, Điều 69 được các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự áp dụng rất khác nhau.
Trên đây chỉ là một vài ví dụ điển hình về tình trạng xung đột trong pháp luật nước ta hiện nay. Chúng tôi cho rằng, nếu có một cuộc tổng điều tra để rà soát kỹ toàn bộ hệ thống VBQPPL sẽ thấy rất rõ tính chất, mức độ của sự xung đột trong pháp luật hiện hành ở nước ta.
2. Vấn đề lỗ hổng trong pháp luật
Trong thời gian gần đây, một số nghiên cứu của các nhà luật học nước ta khi bàn về lỗ hổng trong pháp luật, đã đề cập nhiều hơn đến một số khía cạnh nhất định cả về lý luận và thực tiễn về lỗ hổng ở một số ngành luật3. Tuy nhiên, các nhà luật học Việt Nam vẫn chưa đưa ra một khái niệm đầy đủ về lỗ hổng trong pháp luật. Theo quan điểm của các nhà luật học Liên bang Nga thì, lỗ hổng trong pháp luật là “sự thiếu vắng trong hệ thống pháp luật hiện hành những QPPL phù hợp với những vấn đề cần phải được giải quyết và điều chỉnh”4.
Từ khái niệm nêu trên, các nhà luật học thường chia lỗ hổng trong pháp luật ở những dạng sau: lỗ hổng trong pháp luật thực chứng là trường hợp trên thực tế trong một lĩnh vực nhất định đang tồn tại những hiện tượng, quan hệ xã hội tiêu cực kéo dài trong một thời gian nhưng không có VBQPPL, kể cả tập quán pháp và tiền lệ pháp để điều chỉnh; lỗ hổng trong VBQPPL là trong VBQPPL hiện hành của một ngành luật nào đó đang thiếu QPPL để điều chỉnh một hoặc một số quan hệ xã hội phát sinh và đang tồn tại trong thực tế của đời sống xã hội; lỗ hổng trong toàn bộ hệ thống pháp luật nghĩa là trong từng lĩnh vực quản lý xã hội nhất định thuộc từng ngành luật điều chỉnh, nhưng trong đó có những lĩnh vực xã hội với những quan hệ xã hội đang tồn tại, nhưng trong hệ thống của ngành luật đó lại thiếu luật để điều chỉnh5.
Ở nước ta, những lỗ hổng trong pháp luật thường tồn tại phổ biến ở những dạng sau:
Thứ nhất, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đang tồn tại những hiện tượng tiêu cực hoặc những quan hệ xã hội phức tạp trong một thời gian dài nhưng thực tế không có VBQPPL để điều chỉnh.Ví dụ, trong lĩnh vực bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ, các loại xe gắn máy xuất hiện ở Việt Nam mấy chục năm trước, người tham gia giao thông bằng các phương tiện này không phải đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông. Trong khi đó, tỷ lệ tai nạn giao thông ở nước ta rất cao. “Đặc biệt là theo thống kê gần đây thì số vụ tai nạn giao thông có nguyên nhân liên quan tới xe gắn máy chiếm trên 70%. Mà trong các chấn thương liên quan đến xe máy thì chấn thương sọ não chiếm khoảng 2/3, gây nên tỷ lệ tử vong cao hoặc để lại di chứng nặng nề. Như vậy, có thể nói, chấn thương sọ não chiếm đến 46,67% các vụ tai nạn giao thông - một con số kinh khủng và rùng rợn”6. Chỉ đến khi hậu quả và quá nhiều sự phức tạp từ vấn đề này phát sinh thì ngày 29/06/2007, Chính phủ mới ban hành Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP về lập lại trật tự an toàn giao thông, trong đó quy định về việc bắt buộc đội mũ bảo hiểm đối với người tham gia giao thông bằng phương tiện xe gắn máy.
Thứ hai, trong một lĩnh vực xã hội cụ thể, có văn bản pháp luật điều chỉnh, nhưng một số quan hệ xã hội phát sinh và đang tồn tại trong thực tế nhưng trong văn bản lại thiếu vắng quy phạm pháp luật để điều chỉnh, dẫn đến việc người áp dụng luật không biết căn cứ vào quy định nào để giải quyết. Ví dụ, trong Bộ luật Hình sự có quy định Tội mua bán phụ nữ (Điều 119) và Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120). Như vậy, pháp luật hình sự đã truy cứu đến hành vi mua bán người nhưng chỉ ở góc độ hẹp là mua bán phụ nữ và trẻ em chứ không phải con người nói chung. Vì vậy, hành vi mua bán nam giới, mua bán thai nhi không bị điều chỉnh bởi Bộ luật Hình sự. Trong khi đó, hành vi này cũng nguy hiểm và vô nhân đạo không kém các hành vi phạm tội trên và để lại những hậu quả rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, do không có quy phạm pháp luật hình sự điều chỉnh, pháp luật hình sự cũng không thừa nhận nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật nên các hành vi trên không bị xử lý. Điều đó đã để lại hậu quả rất xấu trong xã hội và không thể chấp nhận được. Vì vậy, Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 5 vừa thông qua Bộ luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã bổ sung Tội mua bán người. Đây sẽ là cơ sở để cơ quan có chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự với hành vi này.
Tồn tại những xung đột và lỗ hổng trong hệ thống pháp luật là do trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cùng với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, rất nhiều các quan hệ xã hội mới nảy sinh cần được điều chỉnh bằng các QPPL, nhưng pháp luật hiện hành không theo kịp các quan hệ mới đó, nhiều quy phạm trở nên lỗi thời. Hoặc các VBQPPL mới được ban hành để điều chỉnh lại chưa đồng bộ, ổn định bởi nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội còn đang trong giai đoạn thử nghiệm. Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn mới về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân chưa được tổ chức nghiên cứu, tổng kết một cách cơ bản, có hệ thống, kịp thời nên nội dung của pháp luật chưa theo kịp, thậm chí còn lạc hậu hơn nhiều so với thực tiễn. Điều đó dẫn đến sự xung đột trong quá trình áp dụng luật, cũng như xuất hiện những lỗ hổng trong hệ thống pháp luật.
Trong khi đó, hoạt động lập pháp, lập quy của Nhà nước ta còn nhiều hạn chế. Có những dự án luật khi soạn thảo còn thiếu sự đầu tư thích đáng về thời gian, công sức, thiếu sự tham gia của các nhà khoa học trong các trường đại học, cơ sở nghiên cứu khoa học và các chuyên gia làm thực tiễn, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành có liên quan trong quá trình soạn thảo văn bản, trình độ và kỹ thuật lập pháp, lập quy của các nhà chuyên môn và các thành viên soạn thảo cũng như các chuyên gia làm nhiệm vụ kiểm tra, thẩm định các dự án luật còn hạn chế7. Thường vấn đề thuộc bộ, ngành nào thì do bộ, ngành đó soạn thảo nên không khắc phục được sự cục bộ. Nhiều VBQPPL khi đưa vào thực tiễn đã bộc lộ sự xung đột lẫn nhau.
Thêm nữa, nguyên nhân tồn tại những lỗ hổng trong hệ thống pháp luật có thể do sự cố tình im lặng của các nhà làm luật trong quá trình xây dựng luật8. Khi soạn thảo văn bản, nhà làm luật đã cố ý bỏ quên vấn đề đã phơi bày rõ ràng trong thực tế mà đáng ra phải giải quyết nó theo đề xuất của những người thi hành pháp luật; hoặc trong quá trình soạn thảo, sửa đổi, bổ sung luật, nhà làm luật đã cố ý đưa những quan hệ xã hội cần điều chỉnh ra khỏi phạm vi điều chỉnh của luật; hoặc nhà làm luật không thể bao quát được tất cả tình huống của cuộc sống cần phải được điều chỉnh bằng luật; do những thiếu sót trong kỹ thuật lập pháp; hoặc do hoàn cảnh thực tế khách quan mà nhà làm luật đã không thể nhận biết được sự phát triển của các quan hệ xã hội.
3. Giải quyết xung đột trong pháp luật và khắc phục lỗ hổng trong pháp luật
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để giải quyết cũng như phòng ngừa, ngăn chặn và hạn chế tối đa các xung đột trong pháp luật và khắc phục những lỗ hổng trong pháp luật ở nước ta hiện nay, theo chúng tôi, các cơ quan chức năng cần quan tâm tới:
3.1. Phương pháp giải quyết xung đột trong pháp luật
Rất nhiều ý kiến cho rằng, xung đột trong hệ thống pháp luật là sự tồn tại tất yếu và không thể tránh khỏi. Ý kiến khác khuyên, nên nhìn nhận nó như là một hiện tượng tiêu cực phổ biến trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Quan điểm thứ ba cho rằng (chúng tôi đồng ý với quan điểm này) không thể phủ nhận sự tồn tại của nó nhưng phải thấy rằng sự tồn tại của những xung đột trong hệ thống pháp luật dẫn tới sự mất cân bằng của hệ thống pháp luật, vi phạm sự hoạt động bình thường của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, cho nên những xung đột trong hệ thống pháp luật không thể coi nó là hiện tượng pháp lý bình thường9. Chính vì vậy cần soạn thảo quy chế có tính nguyên tắc khắc phục những xung đột trong pháp luật, quy định trong luật những chính sách pháp lý, giao cho các cơ quan chuyên trách, người có chức vụ, quyền hạn giải quyết những xung đột trong hệ thống pháp luật. Để đạt được mục đích này, theo chúng tôi, trong quá trình soạn thảo, sửa đổi, bổ sung luật hoặc các văn bản dưới luật, các chủ thể thực hiện cần giải quyết những vấn đề sau:
- Khi tham gia vào hoạt động lập pháp phải triệt để nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của Hiến pháp, luật về thẩm quyền soạn thảo, ban hành, sửa đổi, bổ sung luật;
- Tôn trọng và thực hiện đầy đủ công việc thẩm định ban đầu về tính chất pháp lý của các văn bản, về sự phù hợp với nhau của các VBQPPL;
- Tất cả các VBQPPL phải được các chủ thể có thẩm quyền thường xuyên hệ thống hoá pháp luật nhằm kịp thời phát hiện những xung đột;
- Định kỳ từ sáu tháng đến một năm, sau khi VBQPPL có hiệu lực thi hành, các cơ quan có thẩm quyền soạn thảo luật phải kiểm tra các sản phẩm của mình để phát hiện những quy phạm không ăn khớp và những xung đột khác. Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới10, chúng tôi cho rằng, hàng năm, cơ quan chuyên trách của Quốc hội phải có nhiệm vụ thẩm định thực tiễn thi hành và áp dụng các luật, phát hiện những xung đột, sau đó báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Trong các kỳ họp hàng năm, Quốc hội kịp thời sửa đổi bổ sung ngay nhằm loại bỏ những xung đột. Theo chúng tôi, việc thẩm định này nên trao cho Viện Nghiên cứu lập pháp trực thuộc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thực hiện sẽ hợp lý hơn, vì đây là cơ quan nghiên cứu thuộc cơ quan thường trực của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất không chỉ nghiên cứu các vấn đề về “tổ chức và hoạt động của Quốc hội” mà còn nghiên cứu “ứng dụng những vấn đề liên quan đến hoạt động lập hiến, lập pháp”11. Cụ thể hóa chức năng này đồng nghĩa với việc thực hiện nhiệm vụ thẩm định tính khoa học, tính hợp hiến, hợp pháp về hiệu lực, về nguyên tắc pháp chế của trình tự, thủ tục ban hành, sửa đổi, bổ sung luật,… Hoạt động của cơ quan này sẽ kịp thời, nhanh chóng đưa các thông tin về sự xung đột trong pháp luật tới Quốc hội.
- Phân tích tính hiệu quả thực tiễn áp dụng của các VBQPPL để phát hiện và có phương pháp loại bỏ những xung đột trong từng văn bản luật và trong cả hệ thống pháp luật;
- Làm tốt công tác dự báo những tình huống mâu thuẫn trong nội dung của các quy phạm để ngăn chặn những xung đột trong từng VBQPPL và trong cả hệ thống pháp luật…
3.2. Phương pháp khắc phục lỗ hổng trong pháp luật
Để khắc phục những lỗ hổng trong pháp luật thì nhiệm vụ trước mắt là phải xác định được những quan hệ xã hội nào cần phải có sự điều chỉnh của các QPPL. Theo chúng tôi, về lâu dài, nhiệm vụ này được giao cho các cơ quan tư pháp (trọng tâm là cơ quan toà án) vì các cơ quan tư pháp là các cơ quan thực thi, áp dụng pháp luật nhiều nhất trong thực tiễn, đụng chạm nhiều vấn đề liên quan đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời cũng là các cơ quan thường ban hành các thông tư hướng dẫn áp dụng luật và giải thích luật. Để có cơ sở xác định chính xác những lỗ hổng trong hệ thống pháp luật nói chung, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần chỉ đạo thống nhất cho các cơ quan tư pháp chủ trì phối hợp với Bộ Tư pháp (Cục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật) và các cơ quan chức năng (Vụ pháp chế) của các bộ, ngành phải làm rõ những vấn đề sau:
- Phân tích, đánh giá tổng thể lĩnh vực mà từng bộ, ngành quản lý xem những quan hệ xã hội nào đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp luật hay không, sau đó trình Chính phủ và Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét;
- Đánh giá xem pháp luật hiện hành có phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội và những điều kiện khác không;
- Phân tích từng VBQPPL trong từng ngành luật để xác định và làm rõ thực tế đang thiếu QPPL nào mà trong từng tình huống thực tế cần phải có để điều chỉnh;
- Phân tích những hoàn cảnh và tình tiết mà dự kiến áp dụng những quy phạm tương tự. Trong trường hợp này, những quy phạm để điều chỉnh cần phải có những dấu hiệu pháp lý cốt yếu, cơ bản tương ứng để khi xây dựng và áp dụng vào thực tiễn bảo đảm hiệu quả, chính xác và ổn định lâu dài;
-Trong pháp luật thường có những quy phạm cấm và cho phép, cần làm rõ trong các văn bản luật đang thiếu vắng điều cấm nào mà những người áp dụng luật đòi hỏi phải bổ khuyết.
Chỉ khi xác định được những vấn đề nêu trên thì mới có thể làm rõ được những lỗ hổng trong pháp luật. Sau khi đã xác định được những lỗ hổng trong pháp luật, phải trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội để trình Quốc hội trong kỳ họp gần nhất.
Tóm lại, sự phát triển của đời sống xã hội rất đa dạng, phức tạp, mỗi xung đột trong pháp luật đều có những đặc điểm riêng biệt cần thiết phải phân biệt để có phương pháp điều chỉnh. Và để giải quyết có hiệu quả hơn nữa những xung đột trong pháp luật, khoa học pháp lý và thực tiễn vẫn phải tìm, giải quyết bằng những phương pháp khác nhau, đồng thời phòng ngừa những xung đột trong pháp luật phải phù hợp với tình hình thực tiễn của từng lĩnh vực cụ thể. Vấn đề khắc phục những lỗ hổng trong pháp luật là một vấn đề lớn trong khoa học lý luận về nhà nước và pháp luật, do vậy, việc nghiên cứu vấn đề này cả về phương diện lý luận và thực tiễn có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
(1) Morozova L.A, Lý luận nhà nước và pháp luật, Mátxcơva, 2005, tr. 290 (bản tiếng Nga).
(2) Đỗ Ngọc Hải, Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động lập pháp, lập quy ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, H., 2004, tr. 157.
(3) Xem: Nguyễn Đăng Dung, Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền, Nxb. Tư pháp, H., 2004; Đỗ Ngọc Hải, sđd.
(4) Hersesianxa V.S., Một số vấn đề chung về lý luận pháp luật và nhà nước, M.,2004, tr. 431; Morozova. L.A. sđd. tr. 287 (bản tiếng Nga).
(5) Xem: Hersesianxa V.S. Sđd. tr. 432.
(6)
http://www1.mt.gov.vn/ykienatgt/default.asp?param=category&catid=19&subcatid=14&ArticleID=2129(7) Đỗ Ngọc Hải, sđd, tr. 175.
(
Morozova L.A, sđd, tr. 393.
(9) Xem: Zykov A.I. Những xung đột trong pháp luật: Cơ sở hiến pháp và những nguyên tắc khắc phục /Tạp chí Pháp luật: lý luận và thực tiễn. Mátxcơva, 2005, số 14, tr.9 (bản tiếng Nga).
(10) Kinh nghiệm của Liên Xô trước đây và của Liên bang Nga ngày nay: Hàng năm trước khi Quốc hội họp 15 ngày, Cơ quan thường trực của Quốc hội sẽ tổ chức họp với thành phần gồm các nghiên cứu viên của một số cơ quan nghiên cứu liên quan đến vấn đề hoạch định chính sách, pháp luật của các bộ, ngành thuộc chính phủ và đặc biệt nòng cốt là 2 viện: Viện Nghiên cứu lập pháp (tương đương như ở nước ta) và Viện nghiên cứu Tội phạm học thuộc Viện hàn lâm khoa học để trao đổi về những xung đột, những lỗ hổng trong pháp luật và những vấn đề có liên quan khác đối với việc áp dụng pháp luật, đồng thời đưa ra các sáng kiến lập pháp. Từ đó, Cơ quan thường trực của Quốc hội sẽ tổng hợp trình bày trước Quốc hội để kịp thời ban hành, sửa đổi, bổ sung luật.
(11) Khoản 2, Điều 2 của Nghị quyết 614/2008/UBTVQH12 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thành lập Viện Nghiên cứu lập pháp.
Nguyễn Minh Đức - Trung tâm Nghiên cứu Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm - Học viện Cảnh sát nhân dân